Sự ra đời và phát triển của ngành Trắc địa gắn liền với sự phát triển của xã hội loài người. Ngày nay chúng ta đã biết khá rõ lịch sử phát triển của Trắc địa thông qua các tư liệu khảo cổ.
Vào khoảng ba ngàn năm trước công nguyên, việc phân chia và chiếm hữu đất đai ở Ai Cập đã ình thành. Hàng năm sau các trận lũ của sông Nin, người ta phải xác định lại ranh giới chiếm hữu đất. Điều đó đã thúc đẩy con người sáng tạo ra các dụng cụ và phương pháp thích hợp để đo đạc, phân chia đất. Đó chính là điểm khởi đầu của môn đo đất. Sau Ai Cập đến nền văn minh Hy Lạp cổ đại. Khoảng thế kỷ thứ VI trước công nguyên người Hy Lạp đã đề ra thuyết Trái Đất là một khối cầu. Vào thế kỷ thứ III trước công nguyên nhà thiên văn học Aratosten đã dùng các phương pháp đo đạc để xác định độ dài của kinh tuyến và đưa ra kích thước gần đúng về trái đất. Vào thời đó kiến thức về đo đạc đã góp phần xây dựng thành công các công trình kiến trúc độc đáo ở Ai Cập, Hy Lạp …
Người ta cho rằng thuật ngữ Trắc địa có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp cổ cá nghĩa là phân chia đất đai. Sau này các ngôn ngữ khác đều dùng thuật ngữ đó (Geodesy, Géodésie, Geodezie …)
Bản đồ thế giới đầu tiên đã được nhà thiên văn học Teleme vẽ vào thế kỷ thứ II sau công nguyên. Thế kỷ thứ III, bằng các phương pháp xác trắc địa thuần túy, Kaslo đã xác định được hình dạp quả đất là Elipxoid. Đến thế kỷ XVIII hai nhà bác học người Pháp là Delambre và Machain đã đo chính xác chiều dài kinh tuyến đi qua Paris tính từ xích đạo đến cực Bắc của trái đất. Chiều dài này đặt bằng 10.000.000 m. Trên cơ sở kết quả này, năm 1971 tổ chức đo lường quốc tế chòn Mét là đơn vị đo dài quốc tế hệ SI ( 1 mét = 1:40.000.000 độ dài kinh tuyến qua Paris). Sau này rất nhiều nhà trắc địa trên thế giới đã xác định kích thước của Elipxoid trái đất như Bessel (1841) Everest (1830), Clarke (1866), Helmert (1906), Kraxovski (1940), và nhiều nước đang dùng WGS (1984).
Ở Việt Nam, từ thời Âu Lạc đã biết sử dụng kiến thức trắc địa và kỹ thuật đo đạc để xây dựng thành Cổ Loa xoáy trôn ốc và sau đó xây dựng kinh đô Thăng Long, dào kênh nhà Lê …
Năm 1946 vua Lê Thánh Tông đã ra lệnh vẽ bản đồ đất nước và Việt Nam đã có tập bản đồ ” Đại Việt Hồng Đức” một dấu ấn quan trọng chứng tỏ tổ tiên ta sớm có kiến thức và biết ứng dụng Trắc địa – Bản đồ trong quản lý và xây dựng đất nước.
Thời kỳ Pháp thuộc, người Pháp đã lập ” Sở Đạc Điền Đông Dương “, đưa nhân viên ký thuật và dụng cụ đo đạc đến để thành lập các loại bản đồ địa hình, địa chính phục vụ khai thác, vơ vét tài Nguyên ở Đông Dương.
Ngành trắc địa – Bản đồ Việt Nam thực sự trở thành một ngành độc lập từ tháng 10-1959 khi Thủ tướng Chính phủ ra quyết định thành lập Cục đo đạc bản đồ trực thuộc phủ Thủ Tướng.
Ngày 22-2-1994 Chính phủ ra Quyết định số 12/CP về việc thành lập Tổng cục Địa chính trên cơ sở hợp nhất Tổng cục quản lý ruộng đất và Cục đo đạc bản đồ nhà nước.
Ngành Trắc địa – Bản đồ Việt Nam đã triển khai công tác nghiên cứu và ứng dụng khoa học kyc thuật Trắc địa – Bản đồ trong xây dựng lưới tọa độ, độ cao cấp nhà nước, thành lập các loại bản đồ địa hình, địa chính và bản đồ chuyên đề phục vụ điều tra cơ bản, quản lý, xây dựng và bảo vệ đất nước